Kiểm định sự hội tụ thu nhập giữa các tỉnh thành ở Việt Nam bằng hồi quy không gian

|

Kiểm định sự hội tụ thu nhập giữa các tỉnh thành ở Việt Nam bằng hồi quy không gian

Tính hiệu quả kinh tế (eco-efficiency), lần đầu được giới thiệu bởi Schaltegger và Sturm (1990), là một trong những chủ đề nghiên cứu rất được quan tâm trong lĩnh vực kinh tế phát triển và ngày càng được mở rộng. Theo Kuosmanen (2005), một địa phương sẽ đạt được tính hiệu quả kinh tế nếu địa phương đó sản xuất ra một mức sản lượng cho trước nhưng sử dụng các nguồn lực đầu vào thấp nhất, đôi khi còn có thể xem xét đến tác hại của việc gia tăng sản xuất đối với môi trường. Tính hiệu quả kinh tế có thể được xem xét ở cấp độ nền kinh tế quốc gia hoặc cấp độ tỉnh thành hoặc ở cấp độ ngành kinh tế. Rất nhiều các nghiên cứu đều tính toán tính hiệu quả kinh tế của đối tượng nghiên cứu bằng phương pháp DEA (Data Envelopement Analysis). Ngoài phương pháp DEA, để tính toán tính hiệu quả kinh tế, kỹ thuật đường biên hiệu quả được giới thiệu bởi Aigner và cộng sự (1977), được bổ sung và mở rộng trong nghiên cứu của Kumbhakar và Lovell (2000) cũng là một phương pháp được sử dụng phổ biến.

Mô hình hồi quy được sử dụng để tính toán tính hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu của Kumbhakar và Lovell (2000) như sau:



Trong đó ci  là tổng chi phí, pij là giá của các yếu tố đầu vào, qlà mức sản lượng xác định bởi hàm sản xuất

 
Với hàm sản xuất này, z là c&aacute;c yếu tố đầu vào của hàm sản xuất ζ thể hiện tính hiệu quả của nền kinh tế thứ trong mẫu dữ liệu. Khi ζ < 1, nền kinh tế kh&ocirc;ng đạt được tính hiệu quả kinh tế tốt nhất vì kh&ocirc;ng sử dụng
c&aacute;c nguồn lực đầu vào zi  một c&aacute;ch tốt nhất để đạt được mức sản lượng tiềm năng  f(zi,β). Gi&aacute; trị lớn nhất có thể đạt được của điểm hiệu quả ζ là bằng 1 và khi đó, nền kinh tế đạt mức hiệu quả kinh tế tối ưu.
 
Với mục tiêu kiểm định sự hội tụ trong hiệu quả kinh tế c&aacute;c địa phương ở Việt Nam, bài viết này hướng đến việc &aacute;p dụng kỹ thuật đường biên sản xuất chung để x&aacute;c định hiệu quả kinh tế của c&aacute;c tỉnh th&agrave;ntrong giai đoạn 2010 - 2017.

Tóm tắt m&ocirc; h&igrave;nh lý thuyết về sự hội tụ tuyệt đối và hội tụ có điều kiện về tính hiệu quả kinh tế của địa phương 

 
Trong kinh tế học ph&aacute;t triển, giả thuyết hội tụ trong kinh tế được khởi xướng đầu tiên bởi Barro và Sala- i-Martin (1992) với ý tưởng về sự hội tụ tuyệt đối và hội tụ có điều kiện trong thu nhập. C&aacute;c nghiên cứu này đề cập đến một qu&aacute; tr&igrave;nh trong đó c&aacute;c khu vực nghèo ph&aacute;t triển nhanh hơn c&aacute;c khu vực giàu có và do đó sẽ có kỳ vọng bắt kịp c&aacute;c khu vực giàu có ở một trạng th&aacute;i ổn định (steady state). Với ý tưởng này Sala-i-Martin (1996) đề xuất phương tr&igrave;nh có dạng: 


Trong đó: 

Yit  là quy m&ocirc; kinh tế của quốc gia thứ tại thời điểm t;


cho biết mức độ tăng quy m&ocirc; kinh tế của địa phương tại thời điểm t.
 
Nếu βtrong phương tr&igrave;nh hồi quy (1) mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê thì phương tr&igrave;nh (1) thể hiện được hội tụ beta tuyệt đối giữa c&aacute;c địa phương.

Nếu phương tr&igrave;nh (1) được mở rộng bằng c&aacute;ch bổ sung c&aacute;c biến kiểm so&aacute;t như c&aacute;c yếu tố vốn, lao động và đặc điểm của địa phương thì phương tr&igrave;nh mở rộng này được d&ugrave;ng để kiểm định sự hội tụ có điều kiện. M&ocirc; h&igrave;nh mở rộng khi đó có dạng:
 
 

Trong đó:   là c&aacute;c biến kiểm so&aacute;t có mặt trong m&ocirc; h&igrave;nh. Hệ số β trong phương tr&igrave;nh (2), nếu mang dấu âm và có ý nhĩa thống kê, cho biết có sự tồn tại của hội tụ tương đối.
 
Để kiểm so&aacute;t sự tương quan kh&ocirc;ng gian giữa c&aacute;c địa phương khi xử lý dữ liệu, ba dạng m&ocirc; h&igrave;nh hồi quy kh&ocirc;ng gian thường được sử dụng để x&aacute;c định t&aacute;c động của sự tương quan kh&ocirc;ng gian là m&ocirc; h&igrave;nh sai số kh&ocirc;ng gian (SEM - Spatial Error Model); m&ocirc; h&igrave;nh tự hồi quy kh&ocirc;ng gian (SAR - Spatial Autoregression Model) và m&ocirc; h&igrave;nh Durbin kh&ocirc;ng gian (SDM -Spatial Durbin Model ).
 
Dạng ma trận của m&ocirc; h&igrave;nh sai số kh&ocirc;ng gian SEM là


 
Trong đó: Y là biến phụ thuộc, X chứa c&aacute;c biến độc lập, U là véctơ sai số hồi quy bị tương quan về mặt kh&ocirc;ng gian, λ là hệ số tự tương quan kh&ocirc;ng gian, W là ma trận trọng số kh&ocirc;ng gian và ε ~ N(0, σ2I).
M&ocirc; h&igrave;nh tự hồi quy kh&ocirc;ng gian SAR kiểm so&aacute;t biến trễ kh&ocirc;ng gian của biến phụ thuộc với phương tr&igrave;nh có dạng
 

Trong đó: ρ là hệ số tự hồi quy kh&ocirc;ng gian.

M&ocirc; h&igrave;nh Durbin kh&ocirc;ng gian có sự kh&aacute;c biệt với hai m&ocirc; h&igrave;nh trên ở chỗ, nó cho phép xét đến sự tương quan kh&ocirc;ng gian của cả c&aacute;c biến giải thích bên cạnh sự tương quan kh&ocirc;ng gian của biến phụ thuộc.



Việc &aacute;p dụng kỹ thuật hồi quy kh&ocirc;ng gian để kiểm định sự hội tụ tuyệt đối và tương đối tính hiệu quả kinh tế của c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh được m&ocirc; tả cụ thể trong phần tiếp theo của bài nghiên cứu.

Dữ liệu và phương ph&aacute;p nghiên cứu

Dữ liệu

Bài viết sử dụng số liệu được thu thập từ niên gi&aacute;m thống kê của 63 tỉnh th&agrave;nh phố của Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2017. Đại lượng tổng sản phẩm địa phương (Gross Regional Domestic Product - GRDP) được sử dụng đại diện cho quy m&ocirc; kinh tế của c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh, yếu tố vốn được đo lường bằng tổng vốn đầu tư ph&aacute;t triển, yếu tố quy m&ocirc; lao động được đại diện bằng số người trong độ tuổi lao động của c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh. Độ mở thương mại được đo bằng tỷ lệ giữa tổng xuất nhập khẩu của địa phương và quy m&ocirc; GRDP. Tất cả c&aacute;c số liệu này sử dụng theo gi&aacute; thực tế, được trích xuất và tính to&aacute;n dựa trên số liệu c&ocirc;ng bố chính thức trên niên gi&aacute;m thống kê của c&aacute;c tỉnh, th&agrave;nh.

Phương ph&aacute;p nghiên cứu

Dựa trên phương tr&igrave;nh (1) cho đến phương tr&igrave;nh (6), sự hội tụ tuyệt đối của tính hiệu quả của tỉnh th&agrave;nh với dữ liệu bảng được kiểm định bằng phương tr&igrave;nh




Trong đó: efficiencyit đo lường tính hiệu quả kinh tế đã tính ở bước trên. Trong phương tr&igrave;nh này βcho biết hệ số hội tụ.

Khi m&ocirc; h&igrave;nh kiểm so&aacute;t thêm c&aacute;c biến độc lập quan trọng, hiệu ứng hội tụ trở th&agrave;nh hội tụ có điều kiện, với phương tr&igrave;nh như sau:


   
Tính hội tụ cũng được kết luận là tồn tại nếu hệ số hồi quy β1  trong c&aacute;c phương tr&igrave;nh trên mang dấu âm 
và có ý nghĩa thống kê.
 
Phương tr&igrave;nh (6 ) và ( 7) được ước lượng theo m&ocirc; h&igrave;nh hồi quy kh&ocirc;ng gian như trong phương tr&igrave;nh (3), (4) và (5) nhằm kiểm so&aacute;t sự tương quan chéo giữa c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh trong mẫu dữ liệu. Ma trận trọng số được sử dụng trong bài viết này là ma trận trọng số liền kề với quy ước, c&aacute;c địa phương có đường biên tiếp gi&aacute;p nhau sẽ có trọng số nhận gi&aacute; trị 1 và c&aacute;c địa phương kh&ocirc;ng tiếp gi&aacute;p nhau có trọng số nhận gi&aacute; trị 0.
Kết quả
Đề tài &aacute;p dụng phương ph&aacute;p đường biên chung để tính to&aacute;n điểm hiệu quả kinh tế của c&aacute;c địa phương. C&aacute;c tính to&aacute;n được thực hiện theo dạng phương tr&igrave;nh (1) và (2) trên phần mềm Stata. Bảng 1 thể hiện thống kê m&ocirc; tả gi&aacute; trị trung điểm đ&aacute;nh gi&aacute; hiệu quả kinh tế này theo v&ugrave;ng miền. Theo Bảng 1, Tây Nguyên là v&ugrave;ng kinh tế có điểm đ&aacute;nh gi&aacute; tính hiệu quả kỹ thuật trung b&igrave;nh giai đoạn 2010 - 2017 cao nhất với 0,91 điểm, trong khi đó v&ugrave;ng Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có mức hiệu quả kinh tế thấp nhất, nhưng bù lại mức tăng trưởng hiệu quả kinh tế trung b&igrave;nh cao nhất. Xét trên to&agrave;n bộ mẫu dữ liệu của c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh, điểm hiệu quả trung b&igrave;nh là; 0,869 cho thấy, nh&igrave;n chung c&aacute;c địa phương đều chưa đạt tính hiệu quả tối đa (gi&aacute; trị 1) nhưng mức hiệu quả trung b&igrave;nh tương đối cao. Tốc độ tăng trưởng hiệu quả trung b&igrave;nh h&agrave;ng năm của c&aacute;c v&ugrave;ng kinh tế khoảng 3,9%, mang dấu dương cho thấy sự tăng dần tính hiệu quả kinh tế của c&aacute;c địa phương; trong đó v&ugrave;ng Đ&ocirc;ng Nam Bộ có mức tăng trưởng tính hiệu quả kinh tế thấp nhất. Ngược lại, v&ugrave;ng Trung du và miền núi phía Bắc có mức tăng trưởng tín hiệu quả kinh tế cao nhất.

Có thể nhận thấy rằng, địa phương với nền kinh tế quy m&ocirc; nhỏ, tính hiệu quả kinh tế thấp có mức tăng trưởng hiệu quả cao; trong khi nền kinh tế có quy m&ocirc; lớn, tính hiệu quả kinh tế cao sẽ có mức tăng trưởng tính hiệu quả thấp là những thống kê m&ocirc; tả ban đầu cho thấy vai trò của lý thuyết hội tụ trong tính hiệu quả kinh tế của c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh. Kết quả kiểm định tính hội tụ này được thể hiện ở Bảng 2 và bảng 3 của nghiên cứu.

 
Bảng 1: Bảng thống kê m&ocirc; tả tính hiệu quả của c&aacute;c v&ugrave;ng kinh tế giai đoạn 2010-2017
 


Bảng 2: Kiểm định sự hội tụ tuyệt đối tính hiệu quả kinh tế hồi quy kh&ocirc;ng gian
với ma trận trọng số liền kề

 

Bài viết tiến h&agrave;nh kiểm định sự hội tụ của tính hiệu quả kinh tế c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh trong cả hai trường hợp kh&ocirc;ng d&ugrave;ng và có d&ugrave;ng hồi quy kh&ocirc;ng gian. Lý thuyết hội tụ được kiểm định ở cả hai khía cạnh hội tụ tuyệt đối và hội tụ có điều kiện. Bảng 2 thể hiện kết quả hội tụ tuyệt đối kiểm định trong trường hợp sử dụng ma trận trọng số liền kề. Với hồi quy kh&ocirc;ng gian trên dữ liệu bảng, c&aacute;c m&ocirc; h&igrave;nh sai số kh&ocirc;ng gian (SEM), m&ocirc; h&igrave;ntự hồi quy kh&ocirc;ng gian (SAR) và m&ocirc; h&igrave;nh Durbin kh&ocirc;ng gian (SDM) được thực hiện cho cả trường hợp t&aacute;c động cố định (FEM) và t&aacute;c động ngẫu nhiên (REM). Sự kết hợp này dẫn đến 06 m&ocirc; h&igrave;nh SEM-FEM, SEM-REM, SAR-FEM, SAR_REM, SDM_REM, SDM-REM lần lượt thể hiện từ cột (1) đến cột (6) của Bảng 2. Hệ số hồi quy của biến trễ efficiencyi,t-1 của điểm hiệu quả kinh tế của c&aacute;c địa phương mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê mạnh, và đây cũng một lần nữa khẳng định về sự hội tụ tuyệt đối trong tính hiệu quả kinh tế.
 
Nếu Bảng 2 thể hiện kết quả kiểm định sự hội tụ tuyệt đối tính hiệu quả kinh tế thì Bảng 3 thể hiện kết quả kiểm định sự hội tụ có điều kiện bằng hồi quy kh&ocirc;ng gian với ma trận trọng số khoảng c&aacute;ch. Trong 6 m&ocirc; h&igrave;nh, hệ số hồi quy biến efficiencyi,t-1 cũng mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê trong tất cả c&aacute;c trường hợp. Đây là bằng chứng thống kê mạnh ủng hộ cho sự hội tụ có điều kiện trong tính hiệu quả kinh tế giữa c&aacute;c địa phương.
 
Bảng 3: Kiểm định sự hội tụ có điều kiện tính hiệu quả kinh tế - hồi quy kh&ocirc;ng gian
với ma trận 
trọng số khoảng c&aacute;ch
 

Như vậy, với mục tiêu cần kiểm định sự hội tụ tuyệt đối và hội tụ có điều kiện về tính hiệu quả kinh tế giữa c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh, trong cả hai trường hợp hồi quy dữ liệu bảng th&ocirc;ng thường và hồi quy kh&ocirc;ng gian, tất cả c&aacute;c trường hợp đều cho thấy bằng chứng thống kê mạnh mẽ ủng hộ cho sự hội tụ này.
Kết luận và gợi ý chính s&aacute;ch
Bài viết sử dụng số liệu về GRDP, quy m&ocirc; vốn, lực lượng lao động và độ mở thương mại để tính to&aacute;n tính hiệu quả kinh tế của địa phương bằng phương ph&aacute;p đường biên hiệu quả, từ đó kiểm định tính hội tụ tuyệt đối và hội tụ có điều kiện trong tính hiệu quả kinh tế của c&aacute;c địa phương. Kết quả kiểm định bằng tất cả c&aacute;c phương ph&aacute;p đều cho thấy có bằng chứng thống kê mạnh về sự tồn tại của hội tụ tuyệt đối và hội tụ có điều kiện của tính hiệu quả kinh tế của địa phương. C&aacute;c địa phương đã đạt được mức hiệu quả kinh tế cao thường có tốc độ tăng trưởng tính hiệu quả chậm lại, trong khi c&aacute;c địa phương có mức hiệu quả kinh tế thấp sẽ tăng trưởng tính hiệu quả nhanh hơn.

Kết quả này góp phần giúp c&aacute;c nhà làm chính s&aacute;ch trả lời câu hỏi rằng vì sao những tỉnh th&agrave;nh với quy m&ocirc; kinh tế lớn như th&agrave;nh phố Hồ Chí Minh, Hà Nội… khi tiếp tục gia tăng đầu tư vốn vào kinh tế thường kh&ocirc;ng đạt được mức tăng trưởng như c&aacute;c tỉnh th&agrave;nh có quy m&ocirc; kinh tế nhỏ hoặc như giai đoạn đầu ph&aacute;t triển của địa phương. Điều này hàm ý rằng, khi địa phương đã đạt mức hiệu quả kinh tế cao, cần chú trọng hơn vào việc gia tăng chất lượng sử dụng nguồn vốn hơn là mở rộng quy m&ocirc; đầu tư vốn, và điều này cũng đúng với lực lượng lao động của địa phương. Việc nâng cao chất lượng nguồn lao động cần được chú trọng chứ kh&ocirc;ng phải chỉ gia tăng quy m&ocirc; sử dụng lao động./.

 
Hà Văn Sơn - Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Nguyễn Văn Thắng - Nguyễn Thanh B&igrave;nh - Cục Thống kê TP.HCM
 
 
 
Tài liệu tham khảo
[1]. Aigner, D. J., C. A. K. Lovell, and P. Schmidt. (1977). Formulation and estimation of stochastic frontier production function models. Journal of Econometrics 6: 21-37
[2]. Barro, R.J. and Sala-I-Martin, X. (1991), Convergence, Journal Political Economic, 100, 223-251.
[3]. Kuosmanen, T., Kortelainen, M., (2005). Measuring eco-efficiency of production with data envelopment analy- sis. J. Ind. Ecol. 9, 59-72.
[4]. Kumbhakar, S. C., and C. A. K. Lovell. 2000. Stochastic Frontier Analysis. Cambridge: Cambridge University Press.
[5]. Sala-I-Martin, X. (1996), Regional cohesion: Evidence and theories of regional growth and convergence, Euro- pean Economic Review, 40, 1325-1352.
[6]. Schaltegger, S., Sturm, A. (1990). Ökologische rationalität. Die Unternehmung 44(4), 273-290.
 
Trang web cá cược tính của mặt nạ lửa